Ngồi tại chiếc bàn số 36 tại Maison de Haingonia XVIII nằm cuối 120 Yenne Langès, thưởng thức ly rượu được người bạn pha chế quen thuộc làm cho, những âm thanh này vang lên trong trẻo, êm ru như nước từ một con suối nhỏ đang hướng ra Saint Tôliques de Rivière, một kẻ xa quê cảm thấy như tất cả mọi thứ nhẹ nhàng hơn, âm nhạc cất lên nhưng li rượu lại hạ xuống, liệu một kẻ như ta có xứng đáng được nghe thứ giai điệu này? Liệu đôi tai phàm tục này đến hết đời có cảm nhận được sự sâu lắng ấy? // Đọc cmt, ta như lạc vào xứ những công nương quý tộc đầy hoa lệ , thật vinh dự khi được góp mặt nơi này, hỡi các vị, nâng ly cho những khúc xướng đầy kiêu hãnh này. // Ngày mười lăm tháng Tám, năm Tô Lâm thứ II, trong đêm Paris còn đang run rẩy dưới ánh đèn gas và mùi mưa mùa hạ phảng phất trên đại lộ Champs-Élysées. Gửi Ngài Étienne de Justa, bậc nhạc công của những dải ngân hà, kẻ đã biến âm nhạc thành khoảnh khắc khai sinh của vũ trụ, Tôi – Henri d’Hauteville, một tâm hồn vốn chỉ an trú nơi những salon âm nhạc cổ, nơi Mozart và Debussy vẫn ngân vang như hơi thở của thời gian. Thế nhưng, đêm qua, trái tim tôi đã bị đánh thức bởi một hiện tượng không lời nào sánh được: "L’Explosion Primordiale" của Ngài. Khúc nhạc ấy không chỉ mở ra như một cánh cửa, mà như một vũ trụ bị nén chặt hàng tỷ năm rồi bùng vỡ trong tích tắc, giải phóng hàng vạn mảnh ánh sáng và âm vang. Mỗi tiếng bass như nhịp đập của những vì sao mới hình thành, mỗi đoạn giai điệu như cơn xoáy của các dải ngân hà đang tự khắc tên mình vào bóng tối vĩnh hằng. Tôi ngỡ như mình đang trôi trên boong một con tàu không gian mạ vàng, lướt qua những cơn bão sao và những bình minh chưa từng ai chứng kiến. Ngài, thưa Étienne, không chỉ là một nhạc sĩ – Ngài là một kiến trúc sư của khởi nguyên, một thợ kim hoàn đẽo gọt thời gian thành những viên ngọc âm thanh. Trong "L’Explosion Primordiale", tôi không chỉ nghe thấy nhạc – tôi nghe thấy sự khai sinh của tất cả. Nếu một ngày Ngài đặt chân đến Paris, xin hãy ghé qua phòng trà Le Céleste ở Rue Saint-Honoré. Đêm đó, tôi sẽ đợi Ngài dưới ánh đèn vàng mờ, trên bàn chỉ có một ly champagne đang dần tan bọt, để cùng Ngài luận bàn về cách một vụ nổ ở tận cùng vũ trụ có thể tìm được đường về trái tim một kẻ quý tộc lạc thời như tôi. Với lòng kính trọng và sự kinh ngạc chưa từng phai, Henri d’Hauteville Kẻ đã nhìn thấy cả vũ trụ trong một nốt nhạc. // Thưa Ngài Bá tước đáng kính, Xin cho phép tôi – Nữ tước Loanielle de Khánh d’Aramon, một người con khiêm nhường của miền đồng bằng phương Nam, được gửi đến Ngài đôi dòng trân trọng từ tận đáy lòng. Từ miền đất phương Nam đang chuyển mình từng ngày, nơi những con đường rộng lớn nối liền các khu đô thị phồn hoa, tôi xin gửi đến Ngài lời chào trân trọng cùng niềm ngưỡng mộ khôn cùng. Trong một buổi chiều giữa sắc nắng vàng trải dài trên những hàng cao su bạt ngàn, tôi đã có cơ duyên nghe được bản nhạc của Ngài qua lời kể và tiếng đàn vọng lại từ một thương nhân viễn phương. Thưa Ngài, giai điệu ấy không ồn ào như nhịp sống công xưởng, cũng chẳng vội vã như những dòng người trên đại lộ, mà êm đềm như tiếng gió thì thầm qua những cánh rừng cao su mỗi khi hoàng hôn buông xuống. Âm nhạc của Ngài giống như một dòng sông Sài Gòn lặng lẽ chảy qua vùng đất này – hiền hòa nhưng bền bỉ, mang trong mình sức mạnh nuôi dưỡng tâm hồn. Mỗi khúc ngân nga là một ngôi sao lấp lánh giữa bầu trời Bình Dương đêm, khiến người nghe chẳng thể nào ngoảnh mặt làm ngơ. Giữa những âm vang rộn rã của chợ Thủ Dầu Một, của công trường và phố xá tấp nập, tiếng nhạc của Ngài lại trở thành khoảng lặng thanh khiết, đưa tôi vào một không gian khác – nơi mà tâm hồn được soi sáng bởi ánh đèn pha lê, nơi nghệ thuật vượt lên trên mọi giới hạn của địa lý và thời gian. Tôi vô cùng biết ơn khi âm nhạc của Ngài, vượt qua ngàn dặm hải trình, vẫn có thể chạm đến trái tim những con người nơi đây. Tôi tin rằng, từ người nông dân chăm chỉ trên rẫy tiêu đến những học trò nhỏ dưới mái trường làng, ai cũng sẽ tìm thấy trong âm nhạc ấy một sự đồng điệu thầm lặng. Xin chúc Ngài luôn dồi dào sức khỏe và cảm hứng bất tận, để thế gian này còn mãi được nghe thêm nhiều tuyệt khúc. Nếu duyên số cho phép, tôi mong một ngày nào đó được diện kiến Ngài, để dâng lên lời cảm tạ từ chính đáy lòng. Trân trọng, Nữ tước Loanielle de Khánh d’Aramon Học giả tại Vùng đất độc lạ Bình Dương // Từ Thành Nhà Hồ, ngày 14 tháng 8 năm Tô Lâm II Kính gửi Ngài Đại Công Tước Dé Soltuné Montepré, Từ miền đất xứ Thanh đầy nắng gió, nơi Thành Nhà Hồ uy nghiêm sừng sững, tôi xin trân trọng gửi đến Ngài lời chào nồng hậu và sự ngưỡng mộ sâu sắc. Mới đây, qua một người buôn đường thủy từ phương Tây, tôi được may mắn nghe những bản nhạc do chính Ngài sáng tác. Tiếng đàn ấy, thưa Ngài, không ồn ào như tiếng sóng Sầm Sơn khi vào mùa, cũng chẳng dồn dập như tiếng trống đồng Đông Sơn huyền thoại, mà như làn gió heo may của mùa thu Lam Kinh, nhẹ nhàng mà bền bỉ, lay động tận đáy tâm hồn. Tôi nhận ra, âm nhạc của Ngài không chỉ để nghe, mà để cảm nhận, như cách một người lữ hành lặng ngắm núi non Pù Luông hùng vĩ. Mỗi nốt nhạc là một vì sao, lấp lánh nhưng không lấn át những nốt khác, cùng nhau dệt nên bầu trời trọn vẹn. Tại nơi đây, giữa tiếng cồng chiêng Mường rộn rã và tiếng thuyền chài trên sông Mã, giai điệu của Ngài vang lên như một khoảng lặng thanh khiết. Nó khiến tôi tạm quên đi bụi bặm của những phiên chợ vùng cao, để tưởng như đang ngồi trong một phòng hòa nhạc ở châu Âu, dưới ánh sáng lung linh của đèn chùm pha lê. Xin được bày tỏ lòng biết ơn vì Ngài đã để âm nhạc của mình vượt qua đại dương xa xôi, đến với những miền đất mà có lẽ Ngài chưa từng đặt chân tới. Tôi tin rằng, bất cứ ai từng nghe tiếng đàn ấy, dù là người nông dân trên đồng lúa hay ngư dân trên bến Hậu Lộc, đều sẽ thấy trái tim mình bỗng trở nên mềm mại hơn. Nguyện chúc Ngài sức khỏe và cảm hứng bất tận, để thế giới còn được nghe thêm nhiều tuyệt tác mới. Nếu một ngày thuận gió, mong được diện kiến Ngài, để chính đôi mắt này thấy bàn tay đã viết nên những khúc ca không biên giới. Trân trọng, Tronius de Thaïs Duc Aurelius Thương gia tại Tiểu Vương Quốc Thanh Hóa // Hải Phòng, sáng hè lành lạnh, ngày 15 tháng 8 năm Chúa 1825 Kính gửi Đức Ông Dé Soltuné Montepré, Từ hiên nhà, tôi nhìn ra bến cảng còn đẫm hơi sương. Mặt nước sông Hải Phòng sáng nay phẳng lặng đến mức có thể soi được từng nhịp đập của trái tim người đứng lặng ngắm. Trong khoảng khắc ấy, giai điệu của Đức Ông bỗng vang lên từ đâu đó — chẳng phải từ một nhạc cụ hiện hữu, mà như từ chính làn sương mờ đang trôi trên mặt sông. Tiếng nhạc ấy không sưởi ấm buổi sáng, mà trái lại, làm cái lạnh thấm sâu hơn, tựa như một bàn tay khẽ đặt lên vai, nhắc ta nhớ về một cuộc hẹn xưa đã lỡ. Ngay ở những nốt đầu tiên, ký ức trong tôi mở ra như cuốn sách cũ bị gió bất chợt lật tung: những trang giấy loang mực của tuổi trẻ, những khúc quanh đã đi qua mà chưa một lần ngoái lại. Có những đoạn âm như tấm khăn lụa buông nhẹ xuống mặt bàn trà trong một buổi tiếp khách quý, và cũng có những khoảnh khắc sắc như ánh thép, lạnh lùng chia cắt điều ta hằng mong giữ. Tôi ngờ rằng trong bàn tay của Đức Ông, âm nhạc đã trở thành một thứ thời gian lỏng, để mỗi hợp âm là một nhịp sống trôi qua, và mỗi nốt ngân cuối cùng là một mùa đã mất. Nếu bản giao hưởng này là một chuyến tàu, thì sáng nay tôi là kẻ đứng trên sân ga, dõi theo từng toa tàu khuất dần vào làn sương phương Bắc. Và tôi biết, khi nắng trưa ùa về, cái khoảnh khắc tiễn biệt ấy vẫn sẽ ở lại trong tim, như một vết hằn không thể phai. Với lòng cảm mến hòa cùng nỗi bâng khuâng không dứt, Henry Kiet // Từ thủ đô Paris hoa lệ ngày 24 tháng 12 năm chúa 1815 Kính gửi Ngài Đại Công Tước Dé Soltuné Montepré. Tôi Tử tước Tans De Fontaine,xuất thân từ vùng Slyvenria,xin được gửi đến ngài những lời cảm tạ sâu sắc. Sau khi Napoleon tiến hành phục hưng nước pháp một quý tộc cao quý như tôi,người mà đã định sẵn sẽ sống một cuộc đời giàu sang ngày ngày thưởng thức rượu vang ngồi nghe lại những bản nhạc của ngài bên bờ hồ của lãnh địa,tôi vẫn nhớ khi lần đầu tiên nghe được những giai điệu từ chiếc vĩ cầm được trang trí tinh xảo.Bản thân tôi lớn lên từ những khúc nhạc giao hưởng,được đắm mình trong những nghi lễ quý tộc.Tôi đã kiêu ngạo tin rằng mình đã là hưởng thụ hết được tinh hoa của nhân gian,nhưng sau khi nghe khúc L’Explosion Primordiale" của Ngài. Trái tim tôi đã được đánh thức và quyết định từ bỏ cuộc sống giàu sang đi theo Napoleon để chinh phục các vùng đất tôi vẫn nhớ những lúc ngồi uống rượu và ca hát ở Vienna được đắm mình trong niềm vui chiến thắng đến lúc ngồi lại một góc uống ly trà với mứt ở Moscow,nhưng tôi vẫn tiếp tục được nhờ các bản giao hưởng của ngài mà tôi vẫn được động viên,nó làm tôi nhớ về vị hôn thê Furina De Fontaine đang đợi tôi ở nhà,tôi nhớ những lần cô ấy chơi những tác phẩm kinh điển của ngài,tôi nhớ những món ăn tinh xảo được cô ấy đích thân làm cho tôi bằng đôi tay dính đầy vết thương nó không được ngon nhưng làm tôi thật xúc động,giờ đây sau khi chiến tranh kết thúc,tôi đã chạy trốn khỏi cuộc chiến ngay trong những thời khắc cuối cùng,chính hoàng đế vĩ đại Napoleon đã vào căn lều dặn dò tôi phải sống thật tốt,vì ông ấy biết rằng tôi còn rất nhiều điều phải làm ở phía sau mặc dù tôi đã quyết sẽ theo ngài ấy đến giây phút cuối cùng. Giờ đây ngồi lại trong dinh thự của mình cùng người con gái ấy tôi vẫn không thể tha thứ cho mình vì đã hèn nhát đã không thể cùng ngài đi đến phút cuối. tối nay là ngày chúa hạ thế tôi bỗng nghe được bản L’Explosion Primordiale" của ngài từ chính người con gái tôi yêu người mà đã bỏ âm nhạc khi tôi từ biệt cô ấy để đi theo tiếng gọi của Napoleon,Khúc nhạc ấy vang lên đánh thức được trái tim giá lạnh bởi gió tuyết lạnh lẽo vùng Moscow,nó thắp lên ý chí cho tôi khiến tôi muốn sống muốn tiếp nối các di sản của cha ông. Với lòng ngưỡng mộ của một kẻ vô danh, Tans De Fontaine Kỵ sĩ không trung thành với vương triều nào, chỉ trung thành với những âm thanh khiến tim ta nặng trĩu. // hay, dân ngu tôi lần đầu được thưởng thức loại âm thanh này, không biết diễn tả lời nào cho đáng, cảm xúc trong tôi lúc này như nhảy múa, tranh đấu lẫn nhau giàng lấy phần dc nghe thứ âm thanh này, không biết nói gì hơn, có lẽ đây là lần duy nhất trong đời tôi dc sung sướng, hạnh phúc thế này🌾 // Kính gửi Ngài Aurelio Santemár, Từ miền đồi phủ mây trắng, nơi hoa oải hương rũ bóng bên tường đá xám và những mái ngói cũ soi mình xuống hồ Valmoré, tôi – Esteban de Niebla y Valmoré, Bá tước của Alto de Niebla, xin gửi tới Ngài lời cảm tạ sâu xa. Khúc nhạc của Ngài, như ngọn gió biển phương Nam mang theo hương muối và ánh trăng, nhẹ nhàng vỗ vào ký ức. Nó dẫn tôi đi qua những hành lang hẹp của Granada, nơi tiếng đàn ngân trên từng bậc đá, hòa cùng mùi nhang quế và tiếng áo choàng chạm gót giày. Khi âm thanh dần tan, tôi bỗng thấy mình trở về Valmoré – nơi mây mù quấn lấy tháp chuông cổ và sông nhỏ uốn quanh thị trấn. Ở đó, tiếng suối chảy hòa cùng nhịp của bản nhạc, như thể vùng đất này đã chờ Ngài từ lâu. Ngài ơi, nếu một ngày gió đổi chiều, xin hãy nhận lời mời đến đây, để cùng tôi nâng ly rượu nho ủ lâu năm, nghe lại khúc nhạc ấy trong phòng trà hướng ra triền đồi oải hương tím, nơi bình minh mở ra như cánh cửa của một giấc mơ. Với trọn lòng kính mến, Esteban de Niebla y Valmoré Bá tước của Alto de Niebla // Từ dinh thự Maison du Ciel, Tan Binh, Ville de Saïgon, ngày 14 tháng Tám năm de ToLam II Kính gửi Ngài Dé Soltuné Montepré, Từ miền đô thị rực rỡ ánh đèn, nơi những hàng me già nghiêng bóng xuống đại lộ thênh thang và những biệt thự Pháp cổ lặng im dưới lớp rêu thời gian, tôi – Comte Armand de Tan Binh Saïgon, Hầu tước của Ville de Saïgon – Arrondissement de Tan Binh, xin dâng lời tri ân sâu sắc. Khúc nhạc của Ngài, thưa Đức Ông, không chỉ là giai điệu, mà còn là tấm thảm dệt nên từ ánh hoàng hôn bên sông Sài Gòn và hơi thở nồng nàn của những đêm nhiệt đới. Nó khiến tôi tưởng mình đang đứng giữa quảng trường cổ ở Sevilla, khi tiếng đàn mơn man hòa cùng hương rượu vang đỏ, và tiếng bánh xe ngựa chầm chậm lăn qua những phiến đá cuội. Nhưng rồi, khi bản nhạc lắng xuống, tôi lại thấy mình giữa Tan Binh – hay đúng hơn, Arrondissement de Tan Binh – nơi gió từ sông thổi về khẽ rung những ô cửa gỗ, và tiếng rao khuya len lỏi như thì thầm chào đón giai điệu của Ngài. Ngài ơi, nếu một ngày thuận gió, xin hãy để tôi mời Ngài đến miền đất này, để cùng nâng ly cà phê sữa đá, nghe lại bản nhạc ấy trong gian phòng kính nhìn ra đại lộ Cộng Hòa, nơi ánh đèn phố thị rơi xuống như muôn vì sao của cả thiên đường. Với trọn lòng kính ngưỡng, Comte Armand de Tan Binh Saïgon Hầu tước của Ville de Saïgon – Arrondissement de Tan Binh // Từ dinh thự Villa del Cielo, vùng Montaña de la Latte Lamdon, ngày 14 tháng Tám năm de ToLam II Kính gửi Ngài Dé Soltuné Montepré (Son Tung M-TP), Từ miền cao nguyên sương giăng, nơi những vườn cà phê ẩn mình sau rặng thông già và những biệt thự Pháp phủ rêu xanh, tôi – João de la Latte Lamdon, Hầu tước của Montaña de la Latte, xin dâng lời tri ân sâu sắc. Khúc nhạc của Ngài, thưa Đức Ông, không đơn thuần là giai điệu, mà là tấm thảm dệt từ sương sớm và ánh hoàng hôn. Nó khiến tôi tưởng mình đang đứng giữa quảng trường cổ ở Sevilla, khi tiếng đàn mơn man hòa cùng mùi rượu vang đỏ, và tiếng bánh xe ngựa lăn chậm trên đá cuội. Nhưng rồi, khi bản nhạc lắng xuống, tôi lại thấy mình giữa Đà Lạt – hay đúng hơn, Montaña de la Latte Lamdon – nơi sương chiều ôm lấy từng mái nhà gỗ, và tiếng thông reo như khẽ chào giai điệu của Ngài. Ngài ơi, nếu một ngày thuận gió, xin hãy để tôi được mời Ngài về vùng đất này, để cùng nhấp ngụm cà phê ấm, nghe lại bản nhạc ấy trong gian phòng kính nhìn ra hồ las del Xuan H'uong, nơi sương đêm buông xuống như tấm màn của cả thiên đường. Với trọn lòng kính ngưỡng, João de la Latte Lamdon Hầu tước của Montaña de la Latte // Thưa ngài Bá tước đáng kính, Cho phép tôi, một nam tước nhỏ bé của vùng đất Sanctus Flower, được viết bức thư này để bày tỏ lòng tôn trọng bằng tất cả tấm lòng của mình. Hy vọng Ngài và gia đình vẫn khỏe và bình an. Trong những tháng gần đây, tôi đã dành thời gian để phiêu bạt qua các lãnh địa để tìm kiếm những cảm hứng mới và hiểu biết sâu sắc hơn về cuộc sống. Tôi đã băng qua những cánh đồng trải dài hút tầm mắt, len lỏi qua những rừng cây rậm rạp đầy rẫy những thú dữ, thậm chí đã đặt chân tới đỉnh của ngọn núi cao nhất của vương quốc ta, phóng tầm mắt nhìn lãnh thổ bạt ngạt. Thế nhưng có gì đó trong tôi vẫn chưa được thỏa mãn, tôi vẫn tiếp tục rong ruổi trên những con đường để rồi tối nay tôi đã có mặt tại đây, ở buổi hòa nhạc của ngài. Khi tình cơ lạc bước đến lâu đài của Ngài đây, tôi đã vô tình nghe được những giai điệu du dương vọng ra từ đại sảnh, và lòng hiếu kì đã thôi thúc tôi tiến lại gần. Ngài có thể tưởng tượng được sự kinh ngạc của tôi khi phát hiện ra đó là một buổi hòa nhạc tuyệt vời. Không, đó là mảnh ghép tôi còn thiếu trong cuộc hành trình của mình - những nốt nhạc. Bản giao hưởng đó giống như một cơn bão dữ dội cuốn lấy tâm hồn tôi, rồi lại nhẹ nhàng như một buổi hoàng hôn trên biển. Những nốt nhạc đó đã chạm đến những cảm xúc sâu thẳm nhất trong tôi. Tôi rất mong có cơ hội được gặp mặt Ngài Bá tước để bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc về một buổi tối tuyệt vời mà Ngài mang lại. Chúc Ngài và gia đình luôn mạnh khỏe. Kính thư, Thành Raumania, Sanctus Flower ngày 14 tháng 8 năm 1225 Nam tước Nguyèns De d'Zun // Kính thưa các quý ông, quý bà. Bước tới những giây phút cuối của buổi hòa nhạc, tôi cảm thấy thật vinh hạnh khi đã được cùng các quý ông, quý bà ở đây thưởng thức một kiệt tác âm nhạc, một tuyệt phẩm của thế kỉ này. Rất mong sẽ được cùng ngồi lại với quý ông, quý bà ở những buổi hòa nhạc lần sau. Từ Điện Winterrose, xứ Montclair, ngày 14 tháng 8, năm Thiên Chúa 1830 Kính gửi Đức Nghệ sĩ Tối thượng, Bậc Đại Sư Âm thanh, Armand de Vellière, Bằng tất cả lòng kính ngưỡng mà trái tim một con người phàm trần có thể dành cho bậc thiên tài, tôi viết đôi hàng này, tựa như dâng lên Ngài một đoá hồng trắng hái từ khu vườn của ký ức – nơi những giai điệu bất tử của Ngài đã từng gieo trồng những mầm xúc cảm tinh khiết nhất. Từ thuở xa xưa, khi lần đầu tiên được nghe đến thanh danh của Ngài, tôi đã hình dung một người có thể thuần phục cả dòng chảy vô hình của âm thanh, để biến nó thành tấm thảm gấm óng ánh trải dài từ cõi trần đến tận những tầng trời cao nhất. Và đến khi diện kiến Ngài trong khán phòng huy hoàng rực sáng bởi hàng ngàn ngọn nến, tôi mới hiểu rằng thực tại vượt xa mọi tưởng tượng. Khúc nhạc hôm ấy – ôi, xin cho tôi gọi nó là Thánh thi của tâm hồn – mở đầu bằng một hơi thở nhẹ như làn gió thấm hương nhài trên thảo nguyên buổi sớm, rồi dần vươn mình thành một cơn sóng bạc, cuộn trào dưới ánh trăng bạc ngự trị giữa vòm trời vĩnh hằng. Mỗi nốt tựa một viên pha lê rơi xuống hồ nước phẳng lặng, gợn lên những vòng tròn của ký ức, chạm đến từng trái tim đang ngồi bất động, như những pho tượng khắc từ cẩm thạch sống động. Khi âm cuối cùng tan biến, không gian vẫn đắm chìm trong một khoảng lặng thánh thiện – khoảnh khắc mà thời gian dường như rũ bỏ mọi gông xiềng, để tất cả chúng ta được hòa làm một với cái đẹp thuần khiết. Và rồi, như sấm dậy sau cơn bão, tiếng vỗ tay vang lên dội vào vòm trần dát vàng, trào ra khắp đại sảnh, như để thừa nhận rằng tất cả chúng tôi đã trở thành tín đồ dưới thánh đường âm nhạc của Ngài. Giờ đây, trong buổi chiều mờ sương của miền Montclair, khi ngồi bên cửa sổ hướng ra dòng sông Argenta phủ bóng liễu rủ, tôi bất chợt nghe tiếng ai đó gảy lại khúc nhạc ấy. Ngay lập tức, bao nhiêu bụi mờ của đời sống – những khổ lụy, lo âu, và nỗi chán chường – đều bị cuốn đi như lá vàng trong gió thu. Trong giây phút ấy, tôi đã hiểu: âm nhạc của Ngài không chỉ là nghệ thuật, mà còn là thứ ánh sáng cứu rỗi, soi đường cho những linh hồn mỏi mệt tìm lại miền an yên. Xin hãy chấp nhận nơi đây, thưa Đức Ngài, lời tri ân sâu thẳm nhất – lời tri ân mà dù được viết bằng vàng ròng cũng không thể sánh bằng giá trị thực sự của những gì Ngài đã ban tặng. Tôi tin rằng tên tuổi Armand de Vellière sẽ còn ngân vang như tiếng chuông bạc giữa sương mai, vượt qua mọi giới hạn của thời gian, để sống cùng nhân loại cho đến tận thuở cuối cùng của lịch sử. Nguyện cho Thiên Chúa và các Thiên Thần bảo hộ Ngài, để đôi tay của Ngài mãi còn đủ sức nâng niu những dải lụa âm thanh, và tâm hồn Ngài mãi còn rực sáng như ngọc lưu ly dưới ánh nhật quang. Kính thư và muôn phần kính ngưỡng, Bá tước Henri d’Aubigny de MontclairMột Nghìn Tám Trăm Ba Mư // Từ miền Bắc xứ Hanoinien, ngày 14 tháng 8 năm Chúa 1830 Kính gửi Nghệ sĩ xuất chúng Dé Saint Toine Emvippy, Từ lâu, tôi đã được nghe danh Ngài như một bậc thầy trong lĩnh vực âm nhạc – người có khả năng biến những nốt nhạc thành ngôn từ của tâm hồn, và biến bản nhạc thành bức họa tinh thần. Tiếng đàn, lời ca, hay bất cứ giai điệu nào qua bàn tay Ngài đều mang trong mình hơi thở của sự sống, vừa tinh tế, vừa mãnh liệt, chạm đến những tầng sâu thẳm nhất trong trái tim người nghe. Có lần, tôi may mắn được ngồi trong khán phòng khi Ngài cất lên khúc nhạc. Lúc ấy, ánh nến lung linh lay động, phản chiếu lên từng phím đàn óng ánh. Giai điệu mở đầu như làn gió nhẹ lướt qua vườn hồng buổi sớm, rồi dần dâng lên, cuộn trào như sóng vỗ vào bờ đá. Tôi thấy những người xung quanh lặng đi, hơi thở chậm lại, dường như sợ phá vỡ khoảnh khắc nhiệm màu ấy. Khi khúc nhạc kết thúc, không gian vẫn chìm trong im lặng ngắn ngủi, trước khi tiếng vỗ tay vang lên như cơn mưa rào vỡ oà. Ngài không chỉ là một nghệ sĩ, mà còn là một nhà kiến tạo cảm xúc, một người dẫn lối để tâm hồn lạc lối tìm thấy chốn an yên. Âm nhạc của Ngài, theo tôi, là minh chứng cho việc nghệ thuật có thể vượt lên mọi ranh giới, xoá nhoà mọi khoảng cách giữa con người với con người. Bây giờ khi ngồi trước khung cảnh sương mờ và hương thơm ngào ngạt đến từ dòng sông Tone Lichie, tôi bất giác nghe đến giai điệu quen thuộc của ngài và điều đó đã gợi cho tôi nhớ lại về buổi hòa nhạc hôm đấy. Bao lâu nay, tâm hồn tôi như đống đổ nát khi phải vùi mình vào sách vở và công việc. Khi một lần nữa nghe đến bản nhạc của ngài, giai điệu đấy đã chạm đến những nơi sâu thẳm nhất trong tâm hồn tôi. Tôi chợt cảm thấy tâm trạng mình tốt hơn bao giờ hết, sẵn sàng đối mặt với tất cả áp lực trong cuộc sống Xin được bày tỏ lòng cảm phục của tôi đối với tài năng, tâm huyết và đức hạnh của Ngài. Tôi tin rằng tên tuổi của Ngài sẽ mãi được lưu truyền, giống như những âm vang bất tận của một khúc nhạc bất hủ, sống mãi cùng thời gian. Tôi tha thiết mong rằng, trong một ngày không xa, tôi sẽ lại có vinh hạnh được diện kiến Đức Ngài trong khung cảnh lộng lẫy của một khán phòng tràn ngập ánh nến, để một lần nữa lắng nghe những giai điệu thanh khiết ngân vang dưới đôi tay tài hoa của Ngài. Đó sẽ là khoảnh khắc tôi trân trọng gìn giữ trong ký ức, như một viên ngọc quý giữa dòng thời gian. Cho tới lúc ấy, xin gửi tới Ngài lòng kính mến sâu đậm và lời chúc tốt đẹp nhất Kính chúc Đức Ngài sức khoẻ dồi dào, tâm hồn thanh thản, và sẽ tiếp tục ban tặng thế giới những tuyệt phẩm âm nhạc làm say đắm lòng người. Kính thư, Bá tước Hugh Kaius Montrosé // Ồ đợi đã nào thưa Ngài Nam Tước đáng kính của ta ơi. Ta đang chìm trong giai điệu du dương của những bản hòa ca tuyệt diệu này, nhưng cớ sao bản nhạc 15:02 "big bang - nada é importante" lại có giai điệu của thứ âm thanh đến từ cõi khác, nó như đập vào đôi tai của ta, đến mức cái bánh quy Danisa mà Công Tước xứ Đan Mạch tặng cho ta đã vỡ vụn thành từng mảnh. Than ôi, cảnh tượng ấy mới thật đau lòng biết bao khi ta nghe thấy giai điệu đó, thứ giai điệu không thể hòa hợp với khung cảnh nguy nga lộng lẫy này Ta viết những lời này ra không phải có ý chê trách Ngài Nam Tước đáng kính, ta và các quý tộc đều hết mực ủng hộ Ngài trong việc đem đến những bản nhạc tuyệt tác này, nó như một luồng gió của mùa xuân thổi vào tâm hồn đã khô cằn và già cỗi của ta. Những lời lẽ này cốt chỉ là nêu lên ý kiến chủ quan của cá nhân ta mà thôi, nếu có làm quý Ngài đây phật lòng, xin hãy lượng thứ mà bỏ qua, dùng cùng ta một tách trà nhé. Từ xứ Canthonia, kính chúc Ngài Nam Tước sức khỏe // Ngày mười bốn tháng Tám, năm 1835, khi ánh trăng bàng bạc trải lối qua rừng sương, Gửi tới Ngài Alaric von Cressé, bậc thầy âm nhạc khiến gió ngừng trôi và mây ngừng trôi, Ta, một kẻ lang thang qua những con đường lót đá của Vienne cổ kính, từng uống rượu với các thương nhân ở cảng Luthaine, từng nghe tiếng sóng vỗ vào vách đá đen xứ Corvasse, và từng thấy những nàng thơ lặng lẽ khóc bên bờ suối Valmerine. Nhưng chưa từng có giai điệu nào khiến đôi giày ta dừng bước, khiến thanh gươm ta lặng im trong vỏ, như khúc nhạc của Ngài. Âm thanh Ngài tấu lên, ôi von Cressé, như một ly rượu vang đỏ thắm từ hầm rượu lâu năm, vừa đắng ngắt nơi đầu lưỡi, vừa ngọt ngào nơi cổ họng, khiến ta – một gã quen cười vào gió lạnh – bỗng muốn ngồi xuống bên lò sưởi và mơ về những ngày chưa từng có thật. Khi Ngài chơi bản “Lune et Étoile”, ta thấy lại cánh đồng lúa mạch nơi ta từng chạy trốn cơn giông, thấy bóng dáng người thiếu nữ từng trao ta một đóa hoa dại trước khi ta lên ngựa rời đi. Ta chẳng rành nhạc lý, cũng chẳng hiểu những nốt nhạc uốn lượn thế nào trên giấy. Ta chỉ biết rằng, khi nghe Ngài, ta như được kéo về một góc ký ức mà ta tưởng đã chôn vùi dưới lớp bụi thời gian. Giai điệu ấy, như thể một lời thì thầm của định mệnh, khiến ta muốn cởi bỏ áo giáp, bỏ lại thanh kiếm, và chỉ làm một kẻ bình thường ngồi dưới tán cây nghe Ngài kể chuyện bằng âm thanh. Nếu một ngày Ngài đặt chân đến quán rượu Cygne d’Argent, nơi những kẻ vô danh và những lãnh chúa cùng nâng ly, hãy chơi như cách Ngài đã làm lay động trái tim ta. Ta sẽ ngồi đó, trong góc khuất, với một cốc bia rẻ tiền, lắng nghe như thể ngày mai ta sẽ quên cả thế giới, nhưng không quên được giai điệu của Ngài. Với lòng kính trọng của một kẻ không danh phận, – Valthor de Lyraine – Một kẻ phiêu lưu, không thề nguyền với vương quốc nào, chỉ cúi đầu trước những âm thanh làm rung động hồn ta. // Ngày mười ba tháng Tám, năm 1825, khi trăng vừa treo nửa vầng trên đỉnh núi Gửi đến Ngài Dé Soltuné Montepré, người nhạc sĩ không cưỡi ngựa nhưng khiến tim người phi nước đại, Ta là kẻ quen sống giữa gió và bụi, từng ngủ dưới mái quán rượu ở Grenmorning, từng nhặt ánh sao rơi ven hồ Miraval, từng nghe tiếng hát của công chúa xứ Sylmoria và tiếng khóc của đàn bà góa dưới chân thành Fervé. Nhưng chưa có âm thanh nào khiến ta – một kẻ đã quên khóc từ lâu – phải dừng ngựa giữa đèo cao chỉ để lắng tai. Khúc nhạc của Ngài, Dé Soltuné, đã đến với ta như tiếng thở dài cuối cùng của mùa hạ, len vào tâm khảm như làn rượu ủ ba mùa sương gió – vừa cay, vừa ngọt, vừa khiến ta cười giữa đêm mà không biết vì sao. Ta không hiểu nhiều về nhạc lý. Ta chỉ biết rằng, khi Ngài chơi khúc “Sur lové here?”, ta đã thấy mình đứng giữa quảng trường cũ của làng tuổi thơ, nơi mẹ ta từng thắp nến và cha ta từng dạy ta cưỡi ngựa. Ta đã thấy người phụ nữ năm xưa – người không tiễn ta khi ta ra đi – đứng lặng trong đám đông, mắt không nhìn ta, mà nhìn về hướng tiếng đàn. Với một kẻ phiêu bạt như ta, mọi thứ đều trôi qua: cánh đồng, vạt áo, lời thề, vết sẹo... Nhưng âm nhạc của Ngài – nó ở lại. Như thể có ai đó đã khâu từng nốt nhạc vào bên trong lớp áo giáp này, để khi ta cởi nó ra trong đêm – chỉ còn trái tim trần trụi đang gọi tên Montepré. Nếu một ngày nào đó Ngài biểu diễn ở quán trọ Lune Rouge – nơi những kẻ không có gia phả cũng được ngồi ngang hàng với bá tước – hãy cứ chơi như Ngài vẫn thường. Ta sẽ ở góc quán, gọi một ly rượu vang rẻ tiền, và lắng nghe như thể đó là lần cuối cùng ta còn đủ tim để nghe. Với lòng ngưỡng mộ của một kẻ vô danh, – Caldrein du Rouvain – Kỵ sĩ không trung thành với vương triều nào, chỉ trung thành với những âm thanh khiến tim ta nặng trĩu. // Tôi chỉ là một cậu nhóc nghèo sống ở khu ổ chuột. Nhưng hôm nay trong lúc đánh giày dạo bên quảng trưởng của Haïphong-sur-Mer, tôi bất chợt nghe được những thanh âm của nhà soạn nhạc Dé Chi'fm Loise - người mà tôi vẫn luôn hâm mộ từ khi vẫn còn là những con nòng nọc bơi lội trong hai hòn trứng của bố tôi. Tôi không thể tưởng tượng nổi khi một ngày nào đó tôi có thể nghe trực tiếp những thanh âm ấy. Trong đêm tối tĩnh lặng, chỉ còn mình tôi ngồi lắng nghe từng nốt nhạc, bắt đầu lọ theo từng giai điệu ấy. Tôi đã ra // đọc cmt mà như lạc vào xứ lạ, nơi Paris thơ mộng mà cổ kính, những khúc nhạc nghe mà gợi nhớ // Từ Ferme de la Lande, Commune de Saint-Aubin-sur-Mer, Département du Calvados, France ngày XX tháng Août, năm de ToLam II Kính gửi Ngài Dé Soltuné Montepré, Tôi viết mấy dòng này bằng mực lấm lem bùn, trên mỏng bàn gỗ nơi ánh nến còn vương mùi phô-mai và rượu táo; tôi là Pierre Marchand, chủ nông trại nhỏ Ferme de la Lande, sống ở một nơi cách xa phố xá và tiếng chuông nhà thờ của thị trấn lớn. Sáng nay, khi tôi đang cho bò ăn và quét rơm, radio già cũ của nhà bỗng bật lên khúc nhạc của Ngài. Lúc đầu tôi tưởng là gió rừng hát cùng, nhưng rồi tiếng đàn cứ rõ dần, như ai đặt một tấm lưới ánh sáng trên cả cánh đồng. Bầy gà đứng sững, con chó ngẩng tai, và ngay cả bà vợ tôi, đang nhào bột ở bếp, cũng phải bỏ tay xuống nhìn lên cửa sổ. Thứ nhạc ấy — à, xin Ngài thứ lỗi, tôi không biết gọi là gì ngoài hai chữ: đẹp và thật. Ở đất này, đời sống xoay quanh vắt sữa và giờ thu hoạch; âm nhạc như của Ngài hiếm khi ghé thăm. Vậy mà nó đến, nhẹ nhàng như một trận mưa hè, làm tươi cả thảm cỏ, khiến tôi quên mất chuyện cái máy kéo bị hỏng và nhớ lại lúc còn trẻ, ngồi nghe bà nội hát bên lò sưởi. Có những nốt khiến tim tôi rung, những nốt khác làm tôi cười khẽ — như khi con heo cố leo lên chuồng để trốn nắng. Ngài ơi, âm nhạc của Ngài không chỉ chạm vào tai tôi; nó chạm vào mọi thứ quanh nhà. Nó khiến con bò đứng im, dáng như một vị khách lớn; khiến bức ảnh tổ tiên trên tường có vẻ ngước trông; khiến tôi muốn mời Ngài một bữa ăn giản dị nhưng ngon — bánh mì nương, phô-mai xanh, khoai tây nướng và chai cidre tự ủ. Nếu Ngài chịu đến, xin mang đôi ủng cao su tốt — đất ướt và lầy lội, nhưng tâm hồn ở đây thì sạch. Chúng ta sẽ ngồi bên bàn gỗ, tôi kể cho Ngài mấy chuyện làng, Ngài cho tôi nghe về những cung bậc trong bản nhạc, và nếu Ngài thích, tôi sẽ kéo ra cây harmonica cũ, thổi vài điệu quê nhà cho vui cửa vui nhà. Bà Thérèse sẽ cho Ngài miếng bánh táo vừa ra lò — tôi cá là Ngài sẽ thích, dù Ngài có ăn sang mấy chén pâté ở Paris. Xin Ngài đừng bận tâm về xa xôi; đánh xe qua khỏi bờ rừng, rẽ phải qua cây sồi già, và hỏi thăm Ferme de la Lande. Ở nơi này, người ta trọng khách bằng thứ đơn sơ nhất: nụ cười, ly rượu táo, và một mái nhà đủ ấm. Âm nhạc của Ngài đã làm cho cả nơi hoang vu này bớt cô quạnh; đến chơi một lần để chứng kiến đi — tôi muốn thấy Ngài ngồi giữa chúng tôi, nghe gió và cỏ thì thầm cùng giai điệu. Với lòng biết ơn chân thành và một nụ cười thôn dã, Pierre Marchand Chủ nông trại Ferme de la Lande — người một nông dân chân chất ở làng xa // Thưa ngài! Khi bước chân tôi ra khỏi nơi thính phòng trang nghiêm náo nhiệt ấy, lòng tôi bỗng quặn thắt từng cơn trong sự xúc động mãnh liệt. Đây rồi! chính là những thanh âm hoàn mỹ ấy, tôi chưa từng nghĩ, cũng chưa từng dám mơ, trái tim mình có thể một lần nữa được rung động trước âm nhạc của ngài. Khi khúc ca đầu tiên vang lên, ngài có biết? Tôi ngỡ mình đang lạc vào giữa đại sảnh nguy nga tráng lệ, cùng các công nương, quý tộc say múa trên những giai điệu bay bổng thoát tục, cùng nâng ly rượu vang sóng sánh sắc đỏ, cùng thưởng thức trọn vẹn buổi hoà nhạc quý giá nhất của đời tôi... Không gì hơn, tôi xin được bày tỏ niềm biết ơn vô hạn và sự kính trọng sâu sắc nhất, đối với ngài, người đã tạo nên một kiệt tác của âm nhạc // hỡi những bá tước lịch lãm,hỡi những công nương kiêu sa!, hãy cùng ta đắm mình vào những tấu nhạc đầy sự vinh hoa! thăng trầm của những nghệ sĩ xứng danh lừng lẫy khắp tinh cầu!. Dâng cho ta những bài tân nhạc đầy tính thưởng thức này!. Hãy cùng ta hòa vào điệu nhạc du dương,thưởng thức cùng ta những ly chateau gruaud larose 1989 với sắc màu đỏ thẫm và sâu lắng ấy!. Với hương thơm tinh tế từ những trái quý toát ra trong chai rượu vang tinh tế. Nâng ly cùng ta cạn dòng nhạc!, nâng ly cùng ta nếm cạn, hòa theo tiếng nhạc trầm bổng và hương vị ngất ngây tọa lạc tại dinh thự xa hoa này.! Vinh dự cho ta khi được cùng các vị chiêm ngưỡng tài hoa của các nghệ sĩ trên. Vinh dự cho ta được đắm chìm trong luồn không khí giới tinh anh, tài hoa mà không kém sang trọng giản đơn này!. // Nhà thờ Đức Bà Paris Đêm trước ngày tôi rời khỏi những bậc đá Trong năm Chúa xót thương Kính gửi Ngài Dé Soltuné Montepré, Tôi viết giữa những dầm gỗ tối, nơi tiếng gió bị chia nhỏ bởi các thanh xà, nơi những con chim ngủ gục trong khe ngói và những quả chuông nín hơi như sợ làm kinh động bóng tối. Trên đầu tôi là mái vòm đã ôm tôi cả đời, dưới kia là quảng trường nơi đôi chân nàng từng xoay một vòng tròn ngắn mà tôi nhớ từng nhịp. Tôi chỉ có một mảnh da bạc màu, sần sùi như lưng mình. Nhưng trước khi rời đi, tôi muốn để lại cho Ngài mấy dòng cảm ơn và một lời thú nhận. Tối nay, “Nous ne sommes pas à nous” từ đâu đó vọng qua các vòm, men theo từng vết nứt của đá, trườn qua mặt những pho tượng, rồi dừng lại trong ngực tôi. Tôi nghe như người gác chuông nhận ra có bước chân leo tới rất gần, rồi khựng lại, chờ. Khi giai điệu đó còn ở giữa ngực, tôi đã biết rõ sự thật về kẻ nuôi tôi. Frollo muốn trói tự do bằng dây xích. Dây ấy bện từ sợ hãi và ham muốn. Khúc hát của Ngài không bứt đứt xích. Nó giúp tôi nhìn từng mắt sắt han gỉ. Tôi nghĩ đến Esméralda. Áo váy nàng thường mang mùi cườm vương chút ánh nắng và mặt đá dưới chân nàng từng in bóng thành một đốm sáng lay động. Trái tim nàng không nằm trong tay tôi, điều này tôi nhận ra như người mù chạm phải vực. Nhưng bản nhạc của Ngài xoay cửa sang một khoảng gió rộng. Ở đó, yêu nghĩa là đưa tay che nắng cho ai đó chứ không phải kéo họ vào bóng mát của mình. Tôi đứng ngoài quảng trường tưởng tượng ấy, nghe trong im lặng nảy ra một ngôn ngữ khác, êm hơn cả lời nói. Khi điệp khúc lên, tôi thấy đôi vai vốn quen cúi bỗng đứng thẳng. Sợi dây chuông dưới tay nằm yên như mạch suối sẵn sàng chảy. Tôi kéo một nhịp dài nhẹ, để đá từ từ trả lời. Trong âm vang ấy, câu hát đặt lên vai tôi một tấm áo ánh sáng. Mỏng lắm, mà ấm như bàn tay ai vừa chạm. Trời sắp sáng. Tôi sẽ rời khỏi đây trước khi bước chân khách hành hương làm ấm các bậc thang. Không phải chạy trốn. Chỉ là đi khỏi một căn phòng tôi đã thuộc từng góc, để lên tới nơi mái nhà mở ra cả thành phố, nơi quảng trường từng reo với tiếng vòng chân nàng hiện ra như một chữ khắc. Tôi mang theo khúc hát đã gấp lại bỏ vào túi, như người hành hương giữ mẩu bánh cuối để lừa cơn đói. Khi lòng nặng, chỉ cần chạm vào giai điệu, tôi sẽ nghe được tiếng mình. Nếu một ngày Ngài chơi “Nous ne sommes pas à nous” trước đám đông, xin cho điệp khúc dừng lại một nhịp trước khi quay sang câu tiếp. Ở trên cao, sẽ có một kẻ đang cột chặt sợi dây chuông và nhắc lại với chính mình: không thuộc về nhau không có nghĩa là tình yêu biến mất, đó là nơi tình yêu học cách đứng thẳng. Cảm ơn Ngài vì đã gọi tên tự do bằng một giai điệu dịu. Khi tiếng chuông tắt, đá vẫn còn vang. Khi tôi im bặt, âm nhạc của Ngài vẫn sẽ nói phần còn lại. Với lòng biết ơn của kẻ chỉ có âm nhạc làm gương mặt Quasimodo Người gác chuông của Nhà thờ Đức Bà P.S.: Nếu có ai hỏi vì sao một tấm lưng gù vẫn có thể đứng vững trước gió, xin hãy nói rằng Ngài đã đặt lên đó một điệp khúc. Có những điệp khúc mang theo đôi cánh.